Tóm tắt
Báo cáo tổng quan phát triển
cà phê 2019 của Tổ chức cà phê quốc tế ICO 16/9/2019
[ICO
Coffee Development Report 2019: Overview Growing for
Prosperity
Economic viability as the catalyst for a
sustainable coffee sector]
http://www.ico.org/documents/cy2018-19/ed-2318e-overview-flagship-report.pdf
1.
Bối cảnh
Cà phê là một trong những
hàng hóa nhiệt đới quan trọng, mang lại lợi ích kinh tế cho từng công đoạn của
chuỗi giá trị toàn cầu kết nối nông dân với người tiêu dùng. Công nghiệp cà phê
đóng góp vào nền kinh tế ở quốc gia xuất khẩu lẫn nhập khẩu. Là một loại thức uống,
cà phê mang lại khoái cảm cho lượng người tiêu dùng ngày càng tăng trên khắp thế
giới. Tại nơi sản xuất, cà phê mang lại cuộc sống cho trên 25 triệu nông dân và
gia đình của họ. Các lợi ích kinh tế tạo thêm được các tác nhân dọc theo chuỗi
giá trị toàn cầu thụ hưởng, đó là thương nhân, nhà rang xay, nhà bán lẻ và lực
lượng lao động của họ hoặc các bên liên quan khác.
Trong 2 thập niên qua, ngành
cà phê toàn cầu phát triển đáng kể với nhu cầu tăng 65%. Động lực chính của
tăng trưởng là tăng tiêu thụ ở các thị trường mới nổi và ở các quốc gia sản xuất
cà phê. Nhu cầu ở các thị trường truyền thống đã có mức tiêu thụ đầu người cao
lại có sức sống mới nhờ tăng trưởng ở các phân khúc thị trường có giá trị cao,
như là cà phê đặc sản và các sản phẩm đổi mới sáng tạo mang hương vị mới lạ và
thuận tiện hơn cho người tiêu dùng.
Giá trị của cà phê nhân chưa qua
chế biến sâu ở các nước sản xuất lên tới trên 25 tỷ USD niên vụ 2017/18. Giá trị
của toàn bộ ngành cà phê trên toàn cầu cao hơn gấp nhiều lần, ước tính vượt con
số 200 tỷ USD. Phần lớn giá trị này được tạo ra ở các quốc gia nhập khẩu cà
phê.
Mặc dù trong toàn ngành có sự
tăng trưởng chung, nhưng giá cà phê lại theo chiều hướng đi xuống liên tục kể từ
2016, giảm 30% dưới mức trung bình của 10 năm qua. Nông dân cà phê khắp thế giới
đang phải phấn đấu trang trải chi phí hoạt động như vật tư đầu vào, chi phí chứng
nhận phù hợp, chi phí giao dịch… tiếp tục tăng. Do đó, thu nhập của trang trại bị
giảm và đời sống của hộ sản xuất cà phê, đa số là nông hộ nhỏ ở các quốc gia có
thu nhập thấp và trung bình, đang ngày càng đối đầu với rủi ro. Giá cà phê giảm
sâu đã gây ra những hậu quả kinh tế, xã hội ở các quốc gia sản xuất.
Tình hình này gây rủi ro
nghiêm trọng cho sự bền vững của ngành và cho nguồn cung cà phê trong tương
lai. Nếu không hành động thì ngành cà phê có thể không có đóng góp đáng kể để đạt
được các mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hiệp quốc. Thay vào đó, những tiến bộ
đạt được trước đây có thể bị tổn thương hoặc bị đảo ngược.
2.
Mục tiêu và cấu trúc báo cáo
Báo cáo này phân tích chuyên sâu về nguyên
nhân gốc rễ và tác động của cuộc khủng hoảng giá cà phê hiện nay. Báo cáo có đánh giá độc lập về các hành động có thể thực hiện để giải quyết thách thức kinh tế và thúc đẩy sự bền vững lâu dài của ngành
cà phê. Ngoài ra, báo cáo đưa ra khái niệm thu
nhập đủ sống như một khung tham chiếu để xác định các giải pháp ưu tiên.
Báo cáo cung cấp cơ sở phân tích cho Đối thoại toàn ngành có cấu trúc, một
quá trình do ICO khởi xướng như là một phần của việc thực hiện Nghị quyết 465.
Mục đích của cuộc đối thoại là xác định các giải pháp và hành động cụ thể để giảm bớt tác động ngắn hạn của giá thấp lên các nhà sản xuất và để đạt được một ngành cà phê bền vững trong dài hạn. Cuộc đối thoại toàn ngành ban đầu bao gồm một loạt gồm năm sự kiện tham vấn toàn cầu với sự đóng góp của hơn 80 chuyên gia phát triển và chuyên gia ngành cà phê cũng như sự tham gia của hơn 2.000 bên liên quan.
Báo cáo được cấu trúc trong hai phần chính:
Phần A: đánh giá các yếu tố cơ bản của thị trường cũng như các yếu tố khác quyết định mức giá và biến động giá.
Phần B: phân tích các hành động cụ thể.
3.
Các phát hiện chính
Cà phê có tầm quan trọng về kinh tế nhưng tính
chu kỳ của thị trường là một thách thức cho nông dân và các quốc gia sản xuất. Cà phê là nguồn thu nhập của
trên 12 triệu trang trại trên toàn thế giới, trong đó ¼ do phụ nữ điều hành. Cà
phê tạo công ăn việc làm cho trên 25 triệu gia đình ở các nước sản xuất. Cà phê
vẫn là hàng hóa xuất khẩu. Với 70% sản lượng được xuất khẩu, cà phê mang lại
nguồn ngoại tệ quan trọng. Tuy nhiên sự phụ thuộc vào xuất khẩu đẩy nông dân phần
lớn là nông dân sản xuất nhỏ dễ tổn thương và các chính phủ ở các nước sản xuất
vào rủi ro thị trường rất lớn. Thị trường thất thường đang là thách thức, đặc
biệt đối với 20% quốc gia sản xuất cà phê được xếp hạng thấp về chỉ số phát triển
con người (HDI<0,5), theo định nghĩa của UNDP.
Giá cà phê thấp như hiện nay chủ yếu là do sản
xuất thừa.
Nghiên cứu nhận thấy các yếu tố cơ bản của cung cầu là tác nhân chủ chốt của
giá cả. Dư thừa 2 năm liên tiếp trên thị trường đã dẫn tới vượt cung ước tính
khoảng 8 triệu bao (60kg) niên vụ 2018/19, tương đương gần 5% sản lượng toàn cầu.
Vượt cung là yếu tố chủ chốt gây ra giá cà phê thấp như hiện nay, mặc dù tiêu
thụ vẫn tăng đều đặn.
Các yếu tố không cơ bản cũng có ảnh hưởng lên
giá.
Sự mất giá nội tê của một số quốc gia sản xuất cà phê so với đô la Mỹ làm gia
tăng tính cạnh tranh của một số quốc gia trên thị trường thế giới. Trong khi điều
này nằm ngoài tầm ảnh hưởng của nông dân, đã tạo ra động lực kích thích sản xuất
và xuất khẩu làm nóng thêm tình trạng thừa cung trên thị trường.
Đầu cơ trên thị trường kỳ hạn cà phê có thể làm
căng thẳng thêm những chuyển động của giá. Hoạt động của những nhà giao dịch phi thương mại
có thể làm trầm trọng thêm sự lên xuống của dao động giá, mặc dù các yếu tố cơ
bản của thị trường như cung và cầu vẫn chiếm ưu thế trong dài hạn. Các kết quả
nghiên cứu thị trường cà phê cũng tương tự kết quả nghiên cứu trên các nông sản
khác.
Sự tập trung của bên mua ngày càng tăng, nhưng
sự liên kết với các mức giá vẫn chưa rõ ràng. Tuy nhiên, quyền lực thị trường của bên mua có
thể dẫn tới những điều khoản hợp đồng không thuận lợi cho các tác nhân ở đầu
nguồn chuỗi giá trị như nông dân.
Xu hướng dài hạn của giá cà phê là tiêu cực ở một
số quốc gia. Giá
cà phê thực trên thị trường quốc tế cho thấy biến động cao trong ngắn hạn nhưng
không cho thấy xu hướng dài hạn. Tuy nhiên ở một số quốc gia sản xuất (như
Brazil, Colombia, Ethiopia, Honduras) giá thực của cà phê đã giảm kể từ những
năm 1970, làm cho tình cảnh nông dân xấu thêm nếu giá cà phê thấp không được bù
đắp bởi năng suất, sản lượng cao hơn.
Sự thất thường về giá không tăng thêm nhưng vẫn
ở mức rất cao.
Trong thập niên sau khi tự do hóa thị trường cà phê, sự thất thường giá thoạt đầu
tăng từ 20,8% trong suốt thời kỳ khi các điều khoản của thỏa ước quốc tế cà phê
ICA có hiệu lực (hạn ngạch) lên tới 30,8% trong giai đoạn 1990 – 2000. Tuy
nhiên, sự thất thường giá ở thời kỳ sau đó (2001 – 2018) là thấp hơn đáng kể, ở
mức 21,1%, không có sự sai khác thống kê có ý nghĩa so với thời kỳ có hạn ngạch.
So với các cây kinh tế và cây thực phẩm khác, giá cà phê cho thấy sự thất thường
tương tự, khiến cho nông dân phải chịu rủi ro trong sản xuất cũng như trong những
chọn lựa cuộc sống.
Tác động của thời kỳ giá cà phê thấp kéo dài
lên người sản xuất là rất nghiêm trọng. Trong vòng 1 thập kỷ, chi phí sản xuất theo nội
tệ đã tăng gần gấp 2 lần ở những vùng sản xuất chính. Lao động chiếm trên 50% tổng
chi phí ở hầu hết hệ thống sản xuất (trừ Brazil). Ở những nơi có chi phí cao,
25 – 50% số nông dân không thể trang trải toàn bộ chi phí sản xuất. Chưa có được
số liệu toàn cầu có hệ thống ở cấp độ trang trại – cho thấy có lỗ hổng lớn về số
liệu – nhưng các nghiên cứu hiện có ở từng quốc
gia cho thấy tình trạng căng thẳng tài chính của nông dân đã dẫn đến việc giảm
sử dụng các đầu tư thời vụ và thiếu đầu tư lâu dài cho hiện đại hóa vườn cà
phê. Rủi ro sâu bệnh lan khắp các vùng
trồng cà phê cũng đã tăng lên, tương tự như vậy là sự dễ tổn thương đối với tác
động của biến đổi khí hậu.
Sự tập trung sản xuất theo không gian có nghĩa
là ít có sự đa dạng về nguồn gốc xuất xứ và rủi ro nguồn cung cao hơn. Kể từ 1990, 5 quốc gia sản xuất hàng đầu có tỷ
lệ sản lượng tăng từ 57% lên trên 70%. Sự tập trung sản xuất theo không gian có
thể còn tăng nữa dẫn đến rủi ro nhiều hơn về nguồn cung và người tiêu dùng ít
có chọn lựa hơn về nguồn gốc xuất xứ.
Sự tăng trưởng công bằng là có thể có nhưng các
rào cản đối với gia tăng giá trị vẫn còn. Tiêu thụ cà phê ở các thị trường mới nổi và ở
các quốc gia sản xuất có tốc độ tăng cao hơn so với các thị trường truyền thống
đã mang lại những cơ hội thị trường mới. Ngày nay, 46% nhu cầu cà phê toàn cầu
đến từ các thị trường mới nổi và các quốc gia sản xuất cà phê, so với chỉ 29% đầu
những năm 1990. Nếu xem xét khía cạnh tăng dân số toàn cầu và sự tiếp tục xích
lại gần của mức tiêu thụ đầu người giữa các quốc gia tiêu thụ cà phê truyền thống
và không truyền thống, thì vẫn còn tiềm năng đáng kể cho sự tăng trưởng chung của
thị trường cà phê.
Tăng chi phí chế biến, tiếp thị, phân phối ở
các nước tiêu thụ là các yếu tố chính khiến cho phần của nông dân trong giá bán
lẻ cà phê bị giảm đi. Việc phân tích có hệ thống các khoảng lãi ở
các cấp độ khác nhau trong chuỗi cung ứng còn bị giới hạn do thiếu số liệu và sự
minh bạch. Tuy nhiên, trong một thị trường cạnh tranh với các khoảng chi phí
đang tăng, thì các khoảng lãi cho các tác nhân trong chuỗi giá trị sẽ bị thấp.
Mức độ tái phân phối giá trị từ những tác nhân đầu cuối chuỗi giá trị về lại
cho nông dân cà phê sẽ bị hạn chế. Các chiến lược nhằm tạo ra giá trị tại trang
trại thông qua tạo sản phẩm đặc biệt (nghĩa là thông qua tiếp cận các thị trường
giá trị cao) và ở cấp độ các quốc gia sản xuất (nghĩa là thông qua chế biến cà
phê nhân) sẽ trở nên có hiệu quả hơn trong việc tạo ra lợi nhuận kinh tế và
nâng cao thịnh vượng.
Trên 90% cà phê được xuất khẩu dưới dạng cà phê
nhân và việc tạo thêm giá trị vẫn tập trung ở các quốc gia nhập khẩu. Trong khi có thể vượt qua
những thử thách về kỹ thuật, thì các chi phí vận chuyện và tiếp thị, cũng như
các rào cản thương mại thuế quan và phi thuế quan, vẫn là một trở ngại cho sự tạo
thêm giá trị từ nơi xuất xứ.
Một ngành cà phê có hiệu quả kinh tế ở các quốc
gia sản xuất có đóng góp cực kỳ quan trọng vào việc đạt được các mục tiêu phát triển bền vững. Các phân tích định lượng cho
thấy ảnh hưởng của những cú sốc về giá cà phê từ cấp độ trang trại cho đến cộng
đồng cũng như cả nền kinh tế, khẳng định có sự tương quan chặt giữa những thay
đổi về giá trị cà phê trên thị trường quốc tế với phát triển KT-XH. Giá cà phê
cao đi liển với nhiều việc làm hơn ở nông thôn, đóng góp nhiều hơn của nông
nghiệp vào GDP, mức nghèo đói thấp hơn (mục tiêu 1), an ninh lương thực tăng (mục
tiêu 2), giảm bất bình đẳng (mục tiêu 10) và ổn định chính trị hơn (mục tiêu
16). Do đó, những chính sách giúp tăng và ổn định thu nhập của nông hộ ở các nước
sản xuất cà phê có thể có tác động nhiều đến phát triển KT-XH, do đó có đóng
góp trực tiếp vào hiện thực hóa Chương
trình nghị sự phát triển bền vững 2030.
Các giai đoạn bùng nổ và suy thoái là câu chuyện
lặp đi lặp lại của thị trường cà phê nhưng ngành cà phê đã thay đổi kể từ lần
khủng hoảng giá trước đây. Các thay đổi về mặt cấu trúc gồm tập trung
không gian sản xuất vào ít nguồn gốc xuất xứ hơn ở phía cung và sự tập trung của
công nghiệp cà phê ở phía chế biến. Các sáng kiến bền vững đã phát triển, chủ
nghĩa tiêu dùng có đạo đức lan rộng hơn, phân khúc cà phê đặc sản đã xuất hiện
với sự năng động và gần ½ lượng cà phê sản xuất ra trên thế giới hiện nay được
tiêu thụ bên ngoài các thị trường truyền thống. Có những thách thức mới, như là
tác động của biến đổi khí hậu lên sản xuất cà phê, gây ra đe dọa nghiêm trọng không
chỉ lên đời sống hàng triệu nông dân mà còn ảnh hưởng lên sự bền vững của toàn
ngành cà phê.
Mặt khác, cũng có những cơ hội liên quan đến đổi
mới sáng tạo và công nghệ mới có thể giúp giải quyết ít ra là một số thách
thức của ngành đang gặp phải. Ví dụ, với kết quả của quá trình số hóa chúng ta
có thể thu thập và phân tích số liệu nhanh chóng. Các đổi mới sáng tạo về kỹ thuật
số có thể hỗ trợ sự quyết định của nông dân, tăng năng suất, tiếp cận tốt hơn với
tài chính và thị trường, nâng cao hiệu quả và tính minh bạch trong các chuỗi
giá trị và giúp người sản xuất đến gần hơn với người tiêu dùng.
4.
Tăng trưởng để thịnh vượng: các
lĩnh vực hành động chủ yếu trong ngành cà phê
Báo cáo thảo luận về một loạt các hành động có thể được thực hiện ở các cấp độ từ sản xuất đến thị trường và quản trị ngành. Báo cáo cũng đánh giá về sự đánh đổi và những rào cản khi thực hiện.
Ở cấp độ sản xuất: gồm những hành động như:
-
Những cơ chế nâng cao thành tích trang trại
(năng suất, chất lượng, khả năng chống chịu);
-
Tăng cường đa dạng thu nhập;
-
Cải thiện tiếp cận với bảo hiểm rủi ro về giá
và rủi ro trong sản xuất nông nghiệp;
-
Khuyến khích sự gắn kết của nông dân;
-
Tạo giá trị gia tăng.
Ở
cấp độ thị trường: Các giải
pháp:
-
Quản lý giá và giá cộng thêm;
-
Thực hành thương mại;
-
Thúc đẩy nâng cao nhu cầu;
-
Tạo giá trị gia tăng;
-
Các chiến lược đầu tư.
Ở
cấp độ quản trị ngành hàng
Chính phủ và các cơ quan quản trị ở cấp quốc
gia, khu vực và quốc tế có thể sử dụng một loạt các biện pháp, bao gồm: cơ chế
bảo đảm mua hàng, ấn định giá, các quỹ bình ổn, quản lý nguồn cung và nâng cao
nhu cầu.
Các
giải pháp ưu tiên
(a)
Nâng cao tính minh bạch thị trường bằng cách
thu thập và đánh giá chi phí sản xuất và mức thu nhập đủ sống, nâng cấp các hệ
thống thông tin thị trường hiện có.
(b)
Áp dụng các thực hành mua hàng có trách nhiệm.
(c)
Tạo sân chơi bình đẳng cho ngành công nghiệp cà
phê đối với các thực hành thương mại và bảo đảm hoạt động hiệu quả của các thị
trường kỳ hạn.
(d)
Đạt được thị trường cân bằng hơn.
(e)
Nâng cao sản xuất cà phê cạnh tranh và bền vững
thông qua các mô hình chuyển giao dịch vụ năng động, có thể nhân rộng và quy định
sân chơi bình đẳng về các thực hành sản xuất.
Các
yếu tố tạo điều kiện thuận lợi
(f)
Phát triển các cơ chế tài chính cho phép nới lỏng
tiếp cận với tài chính và các khoản đầu tư chiến lược.
(g)
Bảo đảm có sự đối thoại đa tác nhân, liên minh
và học hỏi.