hững tổ chức có quyền
lực và họ thực sự giúp ích cho hội viên của mình.
Cùng với hồ tiêu và gạo, Cà phê là mặt hàng nông sản Việt Nam có vị thế trên bản đồ xuất khẩu thế giới
Các chuyên gia của Phillip Futures lấy ví dụ, Hiệp hội Bông, Hiệp
hội Ngô của Mỹ là những nhà đầu tư giao dịch rất lớn trên thị trường
hàng hóa. Mục đích chính của những nhà đầu tư này là bảo hiểm rủi ro
giá cho chính các hội viên của mình.
Đơn cử, nông dân Mỹ trồng bông và có sản phẩm xuất khẩu, họ sẽ tính
toán giá đầu vào gồm chi phí nhân công, phân bón, cây giống, lãi vay
vốn… Ba tháng nữa, nông dân sẽ có sản phẩm bán. Giả sử, giá thành mỗi
tấn bông là 300 USD, họ trang trải đủ chi phí đầu vào và có lợi nhuận ở
mức chấp nhận được. Trên thị trường hàng hóa hiện tại, hợp đồng bông kỳ
hạn 3 tháng đạt giá 310 USD/tấn, người nông dân sẽ đóng tiền ký quỹ và
chốt hợp đồng bán kỳ hạn 3 tháng với mức giá trên. Đến ngày thu hoạch,
họ sẽ đóng trạng thái trên thị trường tương lai. Khi ấy xảy ra 2 trường
hợp: nếu bông đạt giá 350 USD/tấn, họ sẽ lỗ 40 USD/tấn; song bán hàng
thật, họ sẽ thu được 350 USD, vượt kỳ vọng của họ 40 USD và đủ để bù lỗ
cho hợp đồng tương lai. Nếu bông chỉ đạt giá 280 USD/tấn, họ sẽ lãi
trên hợp đồng tương lai 30 USD/tấn, số tiền này đủ để bù lỗ cho khoản
lỗ khi xuất khẩu hàng thật. Thu nhập và các hoạt động của người nông
dân do vậy vẫn đảm bảo.
Phương thức giao dịch này giúp người nông dân ổn định được dòng
tiền, song để đổi sự an toàn đó, họ phải bằng lòng với lợi nhuận ở mức
chấp nhận được và không có sự mạo hiểm. Với ý nghĩa như trên, Hiệp hội
Bông (Mỹ) đã đại diện cho các thành viên và mở tài khoản trên sàn giao
dịch. Theo nhận xét của các ngân hàng Việt Nam, tổ chức này trong nhiều
phiên, giao dịch với khối lượng rất lớn, lệnh thị trường họ tham gia
nhiều và có tác động lớn đến giá cả thị trường. Các nhà sản xuất và
xuất khẩu ngô của Mỹ cũng có hiệp hội hoạt động tương tự. Sự am hiểu và
hỗ trợ tích cực của những hiệp hội như vậy được ví như những tấm khiên
bảo vệ các thành viên và hỗ trợ họ rất lớn trong việc duy trì hoạt động
ổn định.
Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê lớn trên thế giới, giá trị xuất
khẩu rất cao, nhưng người nông dân vẫn thường xuyên rơi vào cảnh được
mùa mất giá, thậm chí thua lỗ nặng nề. Cũng đã có những tổ chức tham
gia giao dịch trên sàn hàng hóa, tuy nhiên, từ mục đích ban đầu là bảo
hiểm cho hàng hóa xuất khẩu, sự thắng thua trên sàn giao dịch đã kéo họ
chuyển sang mục đích đầu cơ. Khi khối lượng hàng giao dịch trên sàn
vượt quá xa hàng thật, trong nhiều trường hợp, sự biến động giá hàng
hóa quá lớn khiến các nhà đầu tư thua lỗ nặng.
Là một dạng sản phẩm phái sinh, các hợp đồng giao dịch hàng hóa
tương lai trong nhiều trường hợp cũng đem lại lợi nhuận lớn cho DN Việt
Nam, không hẳn chỉ có ý nghĩa bảo hiểm rủi ro hàng thật. Năm 2009, giá
đồng trên thị trường hàng hóa từng biến động dữ dội, sóng rất lớn khi
giá biến động từ 3.000 – 9.000 USD/tấn, đã có DN Việt Nam giao dịch
trên sàn London kiếm lợi khá.
Nhìn về các sàn giao dịch hàng hóa của Việt Nam thì thấy khả năng
đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư cũng như kinh nghiệm và tiềm lực tổ chức
thị trường còn rất hạn chế. Lãnh đạo một ngân hàng cho hay, chưa bao
giờ ngân hàng ông nghĩ đến việc kết nối cho các khách hàng của mình
giao dịch trên sàn hàng hóa Việt Nam.
Hiện nay, tuy cách xa về địa lý song những ứng dụng của internet cho
phép giao dịch hàng hóa qua các sàn quốc tế rất thuận tiện. Các ngân
hàng Việt Nam hiện trang bị cho khách hàng những phần mềm và chương
trình giao dịch cài đặt sẵn trên máy tính. Chỉ cần click chuột, khách
hàng đã có thể nhìn thấy lệnh của mình hiển thị ngay trên bảng trực
tuyến của sàn London hay Mỹ sau vài giây. Tuy vậy, giao dịch trên các
sàn quốc tế đòi hỏi nhà đầu tư phải tự trang bị kiến thức tốt, nhanh
nhạy và quyết đoán, mà không phải DN hay hộ nông dân nào cũng có khả
năng bám sàn để tham gia.
Tổng hợp lại để có một bức tranh chung về giao dịch hàng hóa của các
DN Việt Nam thì thấy đó mới là những hợp đồng lẻ tẻ, mạnh ai nấy làm,
thiếu một sự liên kết và chia sẻ thông tin.
của tác giả Kinh Vu
Theo Đầu Tư Chứng Khoán