50% lượng càphê còn trong dân
Đến
thời điểm này, lượng càphê trong dân tại Đắk Lắk vẫn còn 40-45% sản
lượng, khiến các DN xuất khẩu lao đao. Theo ông Nguyễn Xuân Thái, Giám
đốc Công ty Càphê Thắng Lợi, việc người dân “găm hàng” góp phần giữ giá
càphê ở mức 39.200 đồng/kg. Do khan hiếm nguồn nguyên liệu cộng với
thiếu vốn nên số lượng DN xuất khẩu càphê tại Đắk Lắk đã giảm, chỉ còn
11 DN thay vì vài chục DN như những năm trước, lượng càphê xuất khẩu
cũng giảm (từ đầu năm 2012 đến nay, các DN trong tỉnh mới xuất khẩu
được 30.000 tấn càphê nhân, đạt kim ngạch 60 triệu USD).
Tại
tỉnh Lâm Đồng, tình hình cũng tương tự. Ông Nguyễn Công Thành, Giám đốc
chi nhánh Công ty cổphần Càphê Inexim cho biết, giá càphê đang có xu
hướng tăng, trong khi lượng càphê trong dân còn trên 50%. Với công suất
thiết kế hiện có, trung bình mỗi ngày Chi nhánh Inexim tại Lâm Đồng
phải mua được ít nhất 50-70 tấn càphê nhân, tuy nhiên, hiện công ty chỉ
mua được 20-30 tấn.
Cũng
theo ông Thành, việc người dân không bán càphê ra nhiều như trước, cộng
với khó tiếp cận vốn ngân hàng khiến công ty phải thay đổi chiến lược
kinh doanh. Theo đó, thay vì mua tạm trữ như mọi năm, công ty phải áp
dụng hình thức “mua ngay, giao ngay”, đồng nghĩa với việc phải hạn chế
xuất khẩu. “Từ đầu mùa vụ tới nay, chúng tôi mới xuất khẩu được khoảng
10.000 tấn, trong khi thời điểm này năm ngoái xuất khẩu được
40.000-50.000 tấn”, ông Thành nói.
DN nước ngoài không trồng vẫn được “hái”
Theo
Bộ Nông nghiệp và PTNT, hiện các DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) đang thu mua hơn 50% tổng sản lượng càphê trong nước. Sự hiện
diện của các “ông lớn” này đáng ra là một tín hiệu tốt, bởi DN trong
nước có thêm cơ hội cạnh tranh cũng như học hỏi kinh nghiệm, công nghệ
tiên tiến. Song việc các DN nước ngoài chiếm lĩnh phần lớn thị trường
đang gây ra sự chèn ép không nhỏ đối với DN nội địa.
Sở
dĩ DN trong nước lép vế ngay trên sân nhà là do thiếu vốn, trong khi DN
nước ngoài không những có tiềm lực tài chính mà còn không phải chịu mức
lãi suất cao như ở Việt Nam.
Cuối cùng, vấn đề lớn nhất của DN và ngành càphê vẫn là giá trị gia
tăng còn thấp do việc sản xuất nhỏ lẻ, không đồng bộ và chưa chú trọng
đúng mức khâu chế biến sau thu hoạch.
Hãy tự cứu mình!
Để đối phó với khó khăn, Hiệp hội Cà phê-Ca cao Việt Nam
(Vicofa) đã xây dựng đề án thành lập Quỹ bảo hiểm càphê trình Chính
phủ. Theo đó, các DN thuộc Vicofa sẽ bị thu phí 2 USD/tấn càphê xuất
khẩu. Với sản lượng xuất khẩu của thành viên Vicofa khoảng 600.000
tấn/năm, dự tính mỗi năm quỹ thu khoảng 1 triệu USD nhằm hỗ trợ cho các
DN thành viên và nông dân.
Đây
là sáng kiến rất thiết thực của Vicofa khi tận dụng được sức mạnh tập
thể. Song vấn đề đặt ra là làm thế nào để sử dụng số tiền này hiệu quả?
Ông Lương Văn Tự, Chủ tịch Vicofa cho biết, nếu dùng quỹ để trợ giá cho
DN khi giá thành thế giới giảm thì hiệu quả không đáng kể, lại không
mang lại lợi ích lâu dài. Vì thế, Vicofa thống nhất sử dụng phần lớn
tiền quỹ này vào việc tái canh cây càphê. Ông Tự cảnh báo: “Nếu không đầu tư lại cho cây càphê thì 10 năm nữa Việt Nam sẽ tụt xuống vị trí thứ tư, thứ năm về sản xuất và xuất khẩu càphê”.
Hiệp hội quyết định dành 50-70% tiền quỹ để hỗ trợ DN và nông dân tái
canh cây càphê già cỗi, 30% hỗ trợ lãi vay tạm trữ càphê, còn lại để
dùng cho việc xúc tiến thương mại.
Tuy
nhiên, đề án này cũng vấp phải sự phản đối không nhỏ từ phía các DN
thành viên Vicofa. Vì thế, đáng ra việc thu phí bắt đầu từ 1/1/2012
nhưng Vicofa phải lùi thời hạn triển khai đến 1/10/2012. Các DN cho
rằng, với mức lợi nhuận thấp, hạn chế trong tiếp cận vốn cùng với tình
hình kinh tế thế giới ảm đạm, mức phí 2 USD/tấn sẽ gây ra nhiều khó
khăn cho DN.
Bộ
Nông nghiệp và PTNT cũng vừa phối hợp với Bộ Công Thương xây dựng các
tiêu chí, đưa xuất khẩu càphê vào diện kinh doanh có điều kiện. Theo
đó, hai tiêu chí chủ chốt để DN được phép xuất khẩu càphê là phải có
kinh nghiệm chế biến - xuất khẩu càphê trong hai năm liên tiếp và phải
xuất tối thiểu 5.000 tấn/năm. Tuy nhiên, điều này rất khó thực hiện,
bởi theo số liệu thống kê, cả nước có 140 DN xuất khẩu càphê thì ngoài
50 DN lớn, 90 DN còn lại chỉ xuất khẩu tổng cộng 30.000 tấn/năm.
Phải
khẳng định rằng, việc thu phí để lập quỹ đầu tư cho dài hạn hay sàng
lọc, thu hẹp số lượng DN để nâng cao chất lượng là hợp lý, song chắc
chắn không dễ thực hiện. Và không chỉ có nỗ lực từ phía Hiệp hội hay
Nhà nước, bản thân các DN cũng phải tìm cách tự vươn lên, nâng cao tính
chuyên nghiệp nếu không muốn bị loại ra khỏi cuộc chơi toàn cầu.
Theo KTNT