Tiếng việt English 
   
Cơ sở Cà phê Bột Phượng
Công ty CP Đầu tư XNK Đăk Lăk
Công ty TNHH PM Coffee
Hợp tác xã Nông nghiệp dịch vụ công bằng Ea Tu
Công ty TNHH MTV XNK 2/9 Đắk Lắk
HTX Nông nghiệp dịch vụ công bằng Ea Kiết
Công ty TNHH MTV Cà Phê 15
Công ty cổ phân đầu tư và phát triển An Thái
VIDEO CLIP
THỐNG KÊ TRUY CẬP
 
Số người truy cập
716663
 
Đang trực tuyến
24138
THỊ TRƯỜNG
Bộ Nông nghiệp Hoa kỳ (USDA) dự báo thị trường và thương mại cà phê thế giới niên vụ 2020/21 (Báo cáo tháng 6/2020)
     USDA dự báo sản lượng cà phê thế giới niên vụ 2020/21 sẽ cao hơn 9,1 triệu bao 60 kg so với niên vụ trước, đạt mức kỷ lục 176,1 triệu bao.

     Brazil được dự báo là tác nhân chính làm tăng sản lượng do Arabica nước này vào năm được mùa trong chu kỳ năm được năm mất và do Robusta đạt sản lượng kỷ lục. Dự báo xuất khẩu thế giới cũng cao hơn, chủ yếu cũng từ Brazil. Tồn kho cuối kỳ toàn cầu dự kiến ​​sẽ tăng lên mức cao nhất trong sáu năm qua do sản xuất vượt xa mức tiêu thụ.

Giá cà phê, được đo bằng chỉ số giá tổng hợp hàng tháng của Tổ chức Cà phê Quốc tế (ICO), giảm trong vài tháng qua xuống còn trung bình 1,04 đô la Mỹ/pound vào tháng 5 năm 2020.

Brazil

Dự báo sản lượng Arabica của Brazil sẽ tăng 6,8 triệu bao so với mùa trước lên 47,8 triệu. Điều kiện thời tiết tốt ở hầu hết các vùng cà phê, thuận lợi cho đậu quả, phát triển và tích lũy chất của quả, do đó mang lại năng suất cao.

USDA dự báo ​​phần lớn vụ thu hoạch Arabica, bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 6, và chất lượng cũng sẽ tốt hơn vụ thu hoạch trước.

Sản lượng Robusta được dự báo sẽ tăng 1,8 triệu bao lên mức kỷ lục 20,1 triệu bao. Lượng mưa dồi dào ​​sẽ giúp tăng sản lượng ở ba bang sản xuất chính là Espirito Santo, Rondonia và Bahia. Ngoài ra, tăng cường sử dụng cây giống vô tính và cải thiện kỹ thuật quản lý vườn cây sẽ có đóng góp lớn vào tăng năng suất. Phần lớn vụ thu hoạch Robusta bắt đầu vào tháng 4 và tháng 5. Tính gộp Arabica và Robusta, tổng sản lượng dự báo tăng 8,6 triệu bao lên mức kỷ lục 67,9 triệu bao. Khoảng một nửa mức tăng sản lượng dự kiến ​​sẽ được xuất khẩu, phần còn lại được dự trữ.

Việt Nam

Sản lượng của Việt Nam được dự báo là 30,2 triệu bao, giảm 1,1 triệu so với sản lượng kỷ lục năm trước. Dự báo diện tích canh tác không thay đổi so với năm trước, hơn 95% tổng sản lượng là Robusta.

Đầu mùa mưa rất ít mưa, sau đó là lượng mưa thấp dưới mức trung bình ở nhiều vùng trồng  chính. Tháng 2 đến tháng 5 thường là những tháng mùa khô, cần phải tưới cà phê trong giai đoạn này để đảm bảo nổ hoa và đậu quả. Tuy nhiên, giá cà phê thấp làm hạn chế đầu tư tưới nước, làm giảm năng suất ở một số nơi.

Dự báo xuất khẩu cà phê nhân ở mức 24 triệu bao, lượng hàng tồn kho cũng ​​sẽ tăng.

Colombia

Dự báo sản lượng Arabica của Colombia tăng 300.000 bao lên 14,1 triệu bao trong điều kiện thuận lợi cho sinh trưởng và năng suất cao. Xuất khẩu cà phê nhân, chủ yếu sang Mỹ và Liên minh châu Âu, dự báo tăng 400.000 bao lên 12,4 triệu bao. Với mức tiêu thụ cũng tăng, USDA dự báo tồn kho cuối kỳ sẽ hơi thấp hơn năm trước.

Indonesia

Sản lượng của Indonesia được dự báo sẽ giảm 400.000 bao xuống còn 10,3 triệu bao do sản lượng Robusta thấp hơn. Mưa trễ làm giảm năng suất ở Nam Sumatra và Java, nơi có khoảng 75% diện tích Robusta.

Sản lượng Arabica, tập trung ở phía Bắc Sumatra, do điều kiện phát triển thuận lợi, dự kiến ​​sẽ tăng 50.000 bao lên 1,3 triệu bao. Tồn kho cuối kỳ dự kiến ​​sẽ vẫn tăng ở mức 2,6 triệu bao, vì giá hiện tại không khuyến khích bán ra. Xuất khẩu cà phê nhân được dự báo giảm 200.000 bao xuống còn 5,9 triệu bao.

Ấn Độ

Sản lượng của Ấn Độ được dự báo sẽ tăng 400.000 bao lên 5,3 triệu bao do thời tiết thuận lợi trong thời kỳ ra hoa và đậu quả làm tăng năng suất của Arabica lẫn Robusta. Dự báo xuất khẩu cà phê nhân giảm 300.000 bao xuống còn 3,3 triệu bao, hàng tồn kho dự kiến ​​sẽ tăng nhẹ.

Trung Mỹ

Tổng sản lượng của Trung Mỹ và Mexico được dự báo tăng 600.000 bao lên 18 triệu bao. Báo cáo cho biết bệnh gỉ sắt cà phê vẫn còn trong khu vực và tiếp tục tác động đến sản lượng.

USDA dự báo ​​Honduras sẽ chiếm gần như toàn bộ sự tăng sản lượng của cả khu vực, tăng 500.000 bao lên 6,1 triệu bao trong điều kiện phát triển thuận lợi cùng với tăng cường sử dụng phân bón để tăng năng suất. Honduras chiếm khoảng một phần ba sản lượng của khu vực.

Mexico và Guatemala mỗi nước chiếm khoảng 20% ​​sản lượng của khu vực, tiếp tục thực hiện các chương trình thay giống bằng các giống mới kháng bệnh gỉ sắt.

Sản lượng của Nicaragua được dự báo sẽ giảm năm thứ ba liên tiếp do bệnh gỉ sắt cà phê.

Xuất khẩu cà phê nhân của cả Trung Mỹ và Mexico được dự báo sẽ ở mức 14,5 triệu bao. Hơn 45% lượng xuất khẩu của khu vực này dành cho EU, tiếp theo là khoảng một phần ba đến Mỹ.

Nhập khẩu

Dự báo nhập khẩu của EU tăng 2 triệu bao lên 49,5 triệu bao và chiếm gần 45% lượng nhập khẩu cà phê nhân toàn thế giới. Các nhà cung cấp hàng đầu bao gồm Brazil ở mức 29%, Việt Nam ở mức 23%, Colombia ở mức 7% và Honduras ở mức 6%. Tồn kho cuối kỳ dự kiến sẽ tăng 1,0 triệu bao lên 14,5 triệu bao.

Hoa Kỳ nhập khẩu lượng cà phê nhân lớn hàng thứ hai, dự báo tăng nhập khẩu 2 triệu bao lên 27 triệu bao. Các nhà cung cấp hàng đầu bao gồm Brazil ở mức 24%, Colombia ở mức 22%, Việt Nam ở mức 16% và Honduras ở mức 6%. Tồn kho cuối kỳ được dự báo sẽ tăng 500.000 bao lên 7 triệu bao.

 

 Trịnh Đức Minh tóm tắt

Tài liệu gốc: https://apps.fas.usda.gov/psdonline/circulars/coffee.pdf

HÌNH ẢNH
BẢN ĐỒ