Giá
cà phê, được đo bằng chỉ số giá tổng hợp hàng tháng của Tổ chức Cà phê Quốc tế
(ICO), giảm trong vài tháng qua xuống còn trung bình 1,04 đô la Mỹ/pound vào
tháng 5 năm 2020.Brazil
Dự
báo sản lượng Arabica của Brazil sẽ tăng 6,8 triệu bao so với mùa trước lên
47,8 triệu. Điều kiện thời tiết tốt ở hầu hết các vùng cà phê, thuận lợi cho đậu
quả, phát triển và tích lũy chất của quả, do đó mang lại năng suất cao.
USDA
dự báo phần lớn vụ thu hoạch Arabica, bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 6, và chất
lượng cũng sẽ tốt hơn vụ thu hoạch trước.
Sản
lượng Robusta được dự báo sẽ tăng 1,8 triệu bao lên mức kỷ lục 20,1 triệu bao.
Lượng mưa dồi dào sẽ giúp tăng sản lượng ở ba bang sản xuất chính
là Espirito Santo, Rondonia và Bahia. Ngoài ra, tăng cường sử dụng cây giống vô
tính và cải thiện kỹ thuật quản lý vườn cây sẽ có đóng góp lớn vào tăng năng
suất. Phần lớn vụ thu hoạch Robusta bắt đầu vào tháng 4 và tháng 5. Tính gộp
Arabica và Robusta, tổng sản lượng dự báo tăng 8,6 triệu bao lên mức kỷ lục
67,9 triệu bao. Khoảng một nửa mức tăng sản lượng dự kiến sẽ được
xuất khẩu, phần còn lại được dự trữ.
Việt Nam
Sản
lượng của Việt Nam được dự báo là 30,2 triệu bao, giảm 1,1 triệu so với sản
lượng kỷ lục năm trước. Dự báo diện tích canh tác không thay đổi so với năm
trước, hơn 95% tổng sản lượng là Robusta.
Đầu
mùa mưa rất ít mưa, sau đó là lượng mưa thấp dưới mức trung bình ở nhiều vùng
trồng chính. Tháng 2 đến tháng 5 thường
là những tháng mùa khô, cần phải tưới cà phê trong giai đoạn này để đảm bảo nổ
hoa và đậu quả. Tuy nhiên, giá cà phê thấp làm hạn chế đầu tư tưới nước, làm
giảm năng suất ở một số nơi.
Dự
báo xuất khẩu cà phê nhân ở mức 24 triệu bao, lượng hàng tồn kho cũng sẽ tăng.
Colombia
Dự
báo sản lượng Arabica của Colombia tăng 300.000 bao lên 14,1 triệu bao trong
điều kiện thuận lợi cho sinh trưởng và năng suất cao. Xuất khẩu cà phê nhân,
chủ yếu sang Mỹ và Liên minh châu Âu, dự báo tăng 400.000 bao lên 12,4 triệu
bao. Với mức tiêu thụ cũng tăng, USDA dự báo tồn kho cuối kỳ sẽ hơi thấp hơn
năm trước.
Indonesia
Sản
lượng của Indonesia được dự báo sẽ giảm 400.000 bao xuống còn 10,3 triệu bao do
sản lượng Robusta thấp hơn. Mưa trễ làm giảm năng suất ở Nam Sumatra và Java,
nơi có khoảng 75% diện tích Robusta.
Sản
lượng Arabica, tập trung ở phía Bắc Sumatra, do điều kiện phát triển thuận lợi,
dự kiến sẽ tăng 50.000 bao lên 1,3 triệu bao. Tồn kho cuối kỳ dự kiến sẽ vẫn
tăng ở mức 2,6 triệu bao, vì giá hiện tại không khuyến khích bán ra. Xuất khẩu
cà phê nhân được dự báo giảm 200.000 bao xuống còn 5,9 triệu bao.
Ấn Độ
Sản
lượng của Ấn Độ được dự báo sẽ tăng 400.000 bao lên 5,3 triệu bao do thời tiết
thuận lợi trong thời kỳ ra hoa và đậu quả làm tăng năng suất của Arabica lẫn
Robusta. Dự báo xuất khẩu cà phê nhân giảm 300.000 bao xuống còn 3,3 triệu bao,
hàng tồn kho dự kiến sẽ tăng nhẹ.
Trung Mỹ
Tổng
sản lượng của Trung Mỹ và Mexico được dự báo tăng 600.000 bao lên 18 triệu bao.
Báo cáo cho biết bệnh gỉ sắt cà phê vẫn còn trong khu vực và tiếp tục tác động
đến sản lượng.
USDA
dự báo Honduras sẽ chiếm gần như toàn bộ sự tăng sản lượng của cả khu vực, tăng
500.000 bao lên 6,1 triệu bao trong điều kiện phát triển thuận lợi cùng với tăng
cường sử dụng phân bón để tăng năng suất. Honduras chiếm khoảng một phần ba sản
lượng của khu vực.
Mexico
và Guatemala mỗi nước chiếm khoảng 20% sản lượng của khu vực, tiếp tục thực hiện các
chương trình thay giống bằng các giống mới kháng bệnh gỉ sắt.
Sản
lượng của Nicaragua được dự báo sẽ giảm năm thứ ba liên tiếp do bệnh gỉ sắt cà
phê.
Xuất khẩu
cà phê nhân của cả Trung Mỹ và Mexico được dự báo sẽ ở mức 14,5 triệu bao. Hơn
45% lượng xuất khẩu của khu vực này dành cho EU, tiếp theo là khoảng một phần
ba đến Mỹ.
Nhập khẩu
Dự
báo nhập khẩu của EU tăng 2 triệu bao lên 49,5 triệu bao và chiếm gần 45% lượng
nhập khẩu cà phê nhân toàn thế giới. Các nhà cung cấp hàng đầu bao gồm Brazil ở
mức 29%, Việt Nam ở mức 23%, Colombia ở mức 7% và Honduras ở mức 6%. Tồn kho cuối
kỳ dự kiến sẽ tăng 1,0 triệu bao lên 14,5 triệu bao.
Hoa
Kỳ nhập khẩu lượng cà phê nhân lớn hàng thứ hai, dự báo tăng nhập khẩu 2 triệu
bao lên 27 triệu bao. Các nhà cung cấp hàng đầu bao gồm Brazil ở mức 24%,
Colombia ở mức 22%, Việt Nam ở mức 16% và Honduras ở mức 6%. Tồn kho cuối kỳ
được dự báo sẽ tăng 500.000 bao lên 7 triệu bao.
Trịnh Đức Minh tóm tắt
Tài liệu gốc: https://apps.fas.usda.gov/psdonline/circulars/coffee.pdf