Biểu đồ 1: Diễn biến giá kỳ hạn của sàn robusta London trong niên vụ 2011-2012
Chỉ còn 2 ngày nữa, niên vụ 2011-12 cà phê chấm dứt. Song, ngày giao
dịch cuối cùng đã chính thức đi qua hôm qua, thứ sáu 28-9-2012.
Một điều thú vị là giá cà phê nhân xô nội địa sau 12 tháng lại quay
về như mức đầu vụ, quanh mức 42.500 đồng/kg, cũng là mức cao đối với mặt
bằng trong cả 12 tháng tại các vùng trồng cà phê.
Đây là niên vụ được mùa nhất từ trước đến nay với chừng 1,6 triệu
tấn, hàng hầu hết được bán với giá cao; ít khi giá xuống mức 35.000
đồng/kg, chủ yếu quanh mức 40.000-42.000 đồng/kg. Chính vì thế, nếu xét
về độ ổn định, niên vụ này, giá cà phê nhân xô trên thị trường nội địa
khá bình ổn chứ không như niên vụ trước 2010-2011, có khi chỉ chừng
25.000 đồng, có khi tăng trên 52.000 đồng/kg, là mức cao kỷ lục từ trước
đến nay.
Giá xuất khẩu dựa trên giá chênh lệch (differential) giữa giá niêm
yết tại sàn giao dịch kỳ hạn robusta Liffe NYSE, London với giá tại cảng
đi TP. Hồ Chí Minh (departure port), niên vụ này cũng nằm ở mức cao.
Nếu lấy loại 2, 5% đen vỡ làm chuẩn, giá FOB thường được mua bán quanh
mức trừ 30-40 đô la Mỹ/tấn, tuy có lúc khựng xuống trừ 80-90 đô la/tấn
ngay đầu vụ. Mức này nhanh chóng bị “chết yểu”. Các niên vụ trước đây,
có khi ở những năm cận kề, mức này chừng trừ 100-150 đô la/tấn dưới giá
niêm yết London; ở thời điểm xa có khi giá trừ đến 350-400 đô la/tấn tuy
lượng xuất khẩu bấy giờ chỉ nhỉnh hơn một nửa so với hiện nay.
Biểu đồ: Giá cà phê Robusta nhân xô nội địa trong niên vụ 2011-2012
Đối với giá sàn robusta Liffe NYSE London, qua nhiều lượt bơm tiền
kích cầu của nhiều nước trên thế giới để giải quyết khủng hoảng kinh tế
toàn cầu, đầu cơ tài chính đã chọn sàn robusta Liffe NYSE làm nơi “làm
ăn” nhiều đợt, có khi là nơi trú ẩn an toàn cho vốn của họ khi các sàn
khác như vàng, dầu thô hay thị trường hối đoái thế giới có biến động
xấu. Từ đầu tháng 2-2012 đến nay, giá luôn ở mức cao hơn so với thời kỳ
đầu vụ.
Giá niêm yết sàn kỳ hạn Liffe NYSE phiên đóng cửa cuối niên vụ hôm
qua thứ sáu 28-9-2012 chốt mức 2182 đô la/tấn. Tuy giảm 6 đô la so với
ngày giao dịch trước đó tức thứ năm, mức này vẫn cao hơn giá đóng cửa
cuối tuần trước 99 đô la/tấn, và cao so với đầu niên vụ chừng 200 đô
la/tấn (xin xem biểu đồ 1 phía trên).
Phải nói rằng, ngành cà phê lại có thêm một niên vụ “được mùa, được
giá”. Chắc sẽ rất khó chịu để phải công nhận sản lượng robusta của niên
vụ này không dưới 1,6 triệu tấn, tăng 24% so với 2010-2011. Nhưng, chối
sao đành vì các dữ kiện khác không thể “bịt” được. Kim ngạch xuất khẩu
cà phê của cả niên vụ ước trên 3 tỉ đô la Mỹ, cao hơn niên vụ trước trên
300 triệu đô la Mỹ.
Vì theo những con số xuất khẩu có được từ những cơ quan thống kê có
thẩm quyền, như Tổng cục Thống kê ước cả niên vụ 2011-12 từ 1-10-2011
đến 30-9-2012 ước xuất khẩu chừng 1,6 triệu tấn; còn Bộ Nông nghiệp ước
xuất khẩu chừng 1,36 triệu tấn. Con số cách biệt giữa 2 cơ quan này
không có gì đáng ngạc nhiên vì, theo cách nhìn riêng của tác giả, một
bên tính cả hàng đã bán nhưng còn nằm tồn kho tại các kho ngoại quan
(sold and unshipped) và phía Bộ Nông nghiệp chỉ tính hàng xuống tàu
(sold and shipped), đã đi đến các nước nhập khẩu.
Rõ ràng, các dự báo về sản lượng cà phê đầu và trong niên vụ đều là
những con số “dè chứng”. Song, đến khi có con số xuất khẩu, sản lượng
lớn, “được mùa” đã không thể giấu nổi con số kia.
Nên, tùy nhiều cách nhìn. Nếu hiện nay, hàng vụ cũ còn trong tay nông
dân chưa bán hay còn gọi là “tồn kho giấu mặt” (invisible stocks), thì
con số sản lượng chắc chắn phải trên 1,6 triệu tấn, tức lớn hơn con số
xuất khẩu. Cầm bằng tính tồn kho giấu mặt như là hàng vụ mới vì nay đã
chuẩn bị vào niên vụ 2012-2013, thì con số 1,6 triệu tấn nên được chấp
nhận như là sản lượng ít nhất của niên vụ 2011-2012, tức chừng 26,7
triệu bao (60 kg/bao).
Thế mà, các con số ước báo gần nhất của nhiều nơi, cả trong lẫn ngoài
nước đều cho quanh mức từ 20 triệu đến 22 triệu bao, rất ít ai dám mạnh
dạn đưa ra con số 23 triệu bao.
Qua các con số trên, ta thấy rằng nhờ giá vững, diện tích trồng nhiều
nơi có thể phát triển mạnh trong thời gian vừa qua. Mặt khác, việc mở
rộng giao thông, đặc biệt quốc lộ 14 xuyên các tỉnh Tây Nguyên, cũng đã
giúp các khu dân cư sống gần đường lộ phá rừng, rẫy trồng cà phê. Thế
mà, có quá nhiều con số ước diện tích trồng cà phê, có nơi 530, có nơi
590 ngàn héc ta…Với những con số lồ lộ thế này, cộng với thực tế kinh
tế-xã hội tại các tỉnh mới, diện tích cà phê trong thời gian qua có thể
nói chỉ có tăng chứ chưa hề giảm.
Nền kinh tế thế giới đang lâm cảnh khủng hoảng bấy nay. Vì thế, thị
trường tài chính và dòng tiền bất ngờ “khi khô khi cạn” khó ai đoán
được. Đây cũng là lúc kiếm ăn của giới đầu cơ tài chính và những ai
thích “lướt sóng” thị trường.
Vừa qua, tứ phía đều bơm tiềm mạnh để kích cầu, kích thích tăng
trưởng kinh tế. Cách đây vài tuần, chủ tịch Ngân hàng trung ương Châu Âu
đã hứa mua cho bằng hết trái phiếu các nước vùng eurozone, rồi Cục Dự
trữ Liên bang Mỹ (Fed) bung gói “nới lỏng định lượng 3 “QE3” bơm chừng
40 tỉ đô la hàng tháng cứu trợ. Mới đây, cả hai ngân hàng trung ương
Nhật Bản và Trung Quốc đều quyết định bơm thêm vào thị trường cả vài
trăm tỉ đô la…Thị trường tài chính trước đó “đứng bánh” do thiếu vốn,
thì nay đang bung lên như được mùa “nước nổi”.
Thực ra, đây cũng là tin vui cho thị trường tài chính thế giới, trong
đó có các sàn hàng hóa. Nhưng, sẽ rất rủi ro nếu các ngành xuất khẩu
hàng hóa không chọn cho mình một hướng đi “bền vững”. Chắc chắn, với
lượng tiền khổng lồ được bung ra, giá hàng hóa và cổ phiếu trên các thị
trường thế giới sẽ được dịp tăng. Sự can thiệp tài chính từ tứ phía ấy
cũng nên hiểu là nhất thời. Mong sao ngành cà phê có hướng đi thích hợp
để lại sẽ có một niên vụ 2012-2013 thành công như niên vụ 2011-2012 này.
Theo Nguyễn Quang Bình (SGTimes)