Hiện trạng ngành hàng cà-phê
Thứ
nhất, về nông nghiệp. Hiện, cả nước có khoảng 580 nghìn ha cà-phê, trong
đó hơn 90% diện tích và sản lượng được trồng và thu hoạch ở
năm
tỉnh Tây Nguyên: Ðác Lắc, Lâm Ðồng, Gia Lai, Kon Tum và Ðác Nông. Cơ cấu
khoảng 530 nghìn ha cà-phê vối và khoảng 50 nghìn ha cà-phê chè. Trong
số diện tích nêu trên có khoảng 150 nghìn ha cà-phê vối được trồng từ
những năm 1980- 1982, đã đến thời kỳ già cỗi, cần thanh lý để tái canh.
Các năm tiếp theo cứ mỗi năm có khoảng 10% diện tích cà-phê già cỗi cần
thanh lý. Việc tái canh cây cà-phê già cỗi là yêu cầu bức thiết hiện
nay. Nếu không được đầu tư xử lý kịp thời thì trong thời gian tới, sản
lượng và chất lượng cà-phê sẽ giảm xuống mức báo động. Theo suất đầu tư
năm 2012, một ha cà-phê sau ba năm (một năm trồng, hai năm chăm sóc) chi
phí hơn kém 200 triệu đồng. Như vậy, muốn tái canh 150 nghìn ha cà-phê
già cỗi cần một lượng vốn 30 nghìn tỷ đồng và mỗi năm tiếp sau cần lượng
vốn 10 nghìn tỷ đồng để tái canh 50 nghìn ha. Ðây là một bài toán không
dễ giải quyết trong bối cảnh kinh tế khó khăn.
Thứ hai, về chế
biến sản phẩm cà-phê. Hiện nay, cả nước chế biến được khoảng gần 10% sản
lượng cà-phê thu hoạch hằng năm, bao gồm cả chế biến rang xay và chế
biến sâu (cà-phê hòa tan). Các nhà đầu tư ở lĩnh vực công nghiệp chế
biến sâu có thương hiệu trong nước như Vinacafe, Trung Nguyên, nước
ngoài có Nescafe. Các sản phẩm rang xay có thương hiệu như: Thu Hà (Gia
Lai), Ðắc Hà (Kon Tum), Vinacafe, Trung Nguyên... Công nghiệp chế biến
mới phát triển ở mức độ thấp, vì vốn đầu tư lớn, trong khi điều kiện tài
chính của các nhà đầu tư Việt Nam còn hạn chế, việc xây dựng thị trường
sản phẩm trong nước và ở nước ngoài mới ở bước đầu. Nhưng chỉ có qua
chế biến thì mới gia tăng giá trị của sản phẩm cà-phê, trong thực tế,
giá trị do cà-phê hòa tan đem lại gấp hàng trăm lần cà-phê nhân. Còn
việc sơ chế cà-phê nhân để xuất khẩu còn rất nhiều vấn đề đặt ra. Tuy
Nhà nước đã ban hành tiêu chuẩn cà-phê nhân 4193/TCVN, quy định chất
lượng cà-phê nhân xuất khẩu, nhưng trên thực tế các doanh nghiệp cà-phê
xuất khẩu vẫn chưa thực hiện nghiêm tiêu chuẩn nêu trên. Vì vậy, Việt
Nam là nước sản xuất cà-phê lớn thứ hai thế giới nhưng chưa có thương
hiệu đúng tầm. Chúng ta bán cà-phê sơ chế cho công ty nước ngoài xong
thì họ tuyển chọn, chế biến lại và đóng tên sản phẩm của công ty đó để
bán cho các nhà rang xay. Tại Việt Nam có rất ít các công ty bán thẳng
sản phẩm đủ tiêu chuẩn trực tiếp cho các nhà rang xay nước ngoài. Do chủ
yếu là xuất khẩu thô cà-phê, Việt Nam không chỉ thiệt hại về giá trị,
còn chịu nhiều thiệt thòi do chưa xây dựng được thương hiệu đối với
người tiêu dùng thế giới. Cà-phê Việt Nam hầu như không có chỗ đứng trên
thương trường quốc tế, trái với Bra-xin hay những nước xuất khẩu ít hơn
như Cô-lôm-bi-a, Ê-ti-ô-pi-a hay thậm chí Kê-ni-a.
Thứ ba, hiện
trạng thu mua xuất khẩu sản phẩm cà-phê càng khó khăn hơn. Các năm từ
2005 đến 2009, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam thu mua và xuất khẩu
được khoảng 70 đến 80% sản lượng cà-phê của niên vụ. Do tình hình tài
chính khó khăn và lãi suất cao, từ năm 2010 đến nay, sản lượng thu mua
xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước giảm dần. Trong khi đó các
doanh nghiệp nước ngoài FDI đã thu mua và xuất khẩu hơn 50% sản lượng
thu hoạch hằng năm. Thời gian qua, họ đã trực tiếp thu mua của người
nông dân, trái với các quy định của Nhà nước. Với lợi thế đủ vốn, vay
lãi suất thấp và nắm bắt thông tin thị trường kịp thời, các doanh nghiệp
nước ngoài đã đẩy các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cà-phê trong
nước vào tình trạng khó khăn, do doanh nghiệp trong nước nắm không sát
giá cả và biến động giá của thị trường thế giới. Hơn nữa các doanh
nghiệp Việt Nam phải vay vốn lãi suất cao, chu kỳ vay ngắn nên việc thu
mua kinh doanh xuất khẩu cà-phê rủi ro cao, nhiều doanh nghiệp lỗ lớn,
lâm vào tình trạng phá sản. Có thể nói, các doanh nghiệp kinh doanh xuất
khẩu cà-phê Việt Nam đã thua ngay trên sân nhà, và không loại trừ khả
năng khi doanh nghiệp nước ngoài thâu tóm được thị trường thì sẽ dẫn đến
tình trạng lũng đoạn giá cả, bất lợi cho cả sản xuất và kinh doanh xuất
khẩu.
Cần những chính sách đồng bộ
Thực trạng sản
xuất - thu mua - chế biến - xuất khẩu cà-phê hiện nay cho thấy, sự phát
triển thiếu ổn định, thăng trầm, không bền vững. Cần có những chính
sách đồng bộ mang tính lâu dài, căn cơ đáp ứng kịp thời các yêu cầu của
sản xuất kinh doanh ngành hàng cà-phê. Ðối với việc trồng cà-phê: Cần
tuân thủ quy hoạch phát triển cà-phê đã được phê duyệt. Cần có chính
sách vay vốn tín dụng Nhà nước để tái canh đối với diện tích cà-phê già
cỗi. Người trồng cà-phê, ngoài việc tuân thủ quy trình cải tạo đất, quy
trình kỹ thuật thì việc lựa chọn giống chất lượng được kiểm định trước
khi trồng là điều rất quan trọng. Vì giống tốt hay xấu ảnh hưởng đến cả
chu kỳ của cây cà-phê. Các cơ quan quản lý và hỗ trợ theo chức năng cần
giám sát mọi mặt phát triển tái canh và trồng mới cà-phê. Bên cạnh đó,
cần đẩy mạnh triển khai các dự án sản xuất cà-phê bền vững, các chương
trình sản xuất cà-phê có chứng nhận theo các bộ nguyên tắc Utz, 4C...
nhằm nâng cao nhận thức và kỹ năng thực hành sản xuất cà-phê bền vững
cho các hộ nông dân.
Về chế biến, đặc biệt là chế biến sâu, Nhà
nước cần quy hoạch phát triển chế biến cà-phê ở tất cả các cấp độ chế
biến: cà-phê nhân, rang xay, chế biến cà-phê hòa tan, có tiêu chuẩn chất
lượng sản phẩm và kiểm tra chất lượng sản phẩm bảo đảm an toàn vệ sinh
thực phẩm. Ðồng thời, có chính sách tín dụng đặc biệt ưu đãi đối với dự
án chế biến cà-phê hòa tan, kết hợp với ma-két-tinh xây dựng thị trường
tiêu thụ bền vững cả trong và ngoài nước.
Ðối với thu mua xuất
khẩu cà-phê hiện nay, cần có chính sách đồng bộ: từ thu mua tạm trữ tới
việc xây dựng doanh nghiệp xuất khẩu cà-phê có điều kiện về tài chính,
kho hàng, kinh nghiệm. Không để các doanh nghiệp bất chấp điều kiện về
con người, về tài chính, cơ sở vật chất... đua nhau làm xuất khẩu cà-phê
như hiện nay. Chính sách thu mua tạm trữ cần được xây dựng và thực hiện
lâu dài đối với các doanh nghiệp tham gia cả về kế hoạch tín dụng tạm
trữ và cơ chế tài chính tạm trữ để điều hòa sản lượng tiêu thụ trong
năm, không để các nhà đầu tư, kinh doanh quốc tế chi phối. Cần có quỹ
tài chính bảo hiểm ngành hàng để hướng dẫn, hỗ trợ một phần tất cả các
khâu sản xuất- chế biến- xuất khẩu.
Ðối với những doanh nghiệp
lớn sản xuất kinh doanh về cà-phê như Tổng Công ty Cà-phê Việt Nam, rất
cần được Nhà nước quan tâm hỗ trợ, xử lý hết những tồn tại cũ kéo dài
nhiều năm như: Vốn vay chương trình phát triển cà-phê chè AFD, chương
trình hợp tác cà-phê Việt - Ðức ODA, lỗ lũy kế của giai đoạn 2001-
2005..., để tổng công ty ổn định, phát triển, thật sự là doanh nghiệp
"đầu tàu" phát triển thương hiệu cà-phê Việt Nam.
TS ÐOÀN ÐÌNH THIÊM
Phó Chủ tịch Hiệp hội
Cà-phê Ca-cao Việt Nam,
Chủ tịch HÐTV Tổng công ty
Cà-phê Việt Nam
Theo http://www.nhandan.com.vn