Colombia:
Những người trồng cà phê tại Colombia được tổ chức trong Liên đoàn
nông dân trồng cà phê Colombia (National Coffee Growers Federation of
Colombia – Federacafé).
Federacafé mua cà phê từ người sản xuất, chế biến cà phê, bán chúng
cho thị trường trong nước và hoạt động như một công ty xuất khẩu (cạnh
tranh với công ty tư nhân).
Một trong những mục tiêu chính của Federacafé là bảo vệ thu nhập của
người nông dân thông qua việc đảm bảo giá cho họ. Việc đảm bảo mức giá
trong nước như vậy thông qua quỹ bình ổn, Quỹ cà phê quốc gia (National
Coffee Fund). Đây là một quỹ công được quản lý bởi Federacafé, hoạt động
theo hợp đồng được tái ký kết hằng năm. Quỹ hoạt động ở cấp độ xuất
khẩu, bao trùm cả Federacafé và công ty xuất khẩu tư nhân. Nguồn lực tài
chính được tích lũy trong suốt thời gian giá thế giới cao được sử dụng
để hỗ trợ giá trong nước khi giá thế giới thấp.
Trong suốt giai đoạn giá cà phê thấp kéo dài bắt đầu từ cuối những
năm 90, khi giá trong nước cứ mỗi vài tuần lại được điều chỉnh giảm để
giữ cho FNC không mắc nợ, Federacafé đã xem xét khả năng sử dụng hợp
đồng giao sau và quyền chọn nhằm đảm bảo quỹ FNC không bị mất hết. Nhưng
giá tăng trở lại và những thảo luận đó đã tạm gác lại.
Costa Rica:
Costa Rica lại có một hệ thống cà phê đặc biệt khác. Nông dân không
bán mà vận chuyển cà phê đến công ty chế biến – công ty này sẽ chế biến
và bán cà phê trên danh nghĩa nông dân; lợi nhuận được chia ra.
Là một phần của hệ thống, nông dân sẽ nhận được khoản tiền ứng trước,
vài tháng trước khi vận chuyển cà phê đến nhà máy chế biến. Công ty chế
biến thanh toán một phần nữa khi nông dân vận chuyển cà phê đến, và
phần còn lại (thông thường khoảng 40%) sẽ thanh toán sau khi xuất khẩu.
Hầu hết những công ty chế biến là tư nhân, nhưng nhóm chế biến lớn
thứ hai tại Costa Rica do Liên đoàn Hợp tác xã nông dân trồng cà phê
(Federation of Cooperatives of Coffee Growers) nắm giữ.
Điều này mang lại cho nông dân mức giá tối thiểu một cách hiệu quả.
Và cũng hấp dẫn nhà chế biến sử dụng hợp đồng quyền chọn để chốt giá bán
tối thiểu: họ có thể sử dụng hợp đồng quyền chọn để cung cấp mức giá
tối thiểu cao hơn cho nông dân và do đó tăng tính cạnh tranh so với
những công ty chế biến khác (khu vực chế biến tại Costa Rica rất cạnh
tranh) – và tránh rủi ro nếu như giá giảm, sẽ gây tổn thất lớn. Hợp đồng
quyền chọn do đó được sử dụng rộng rãi kể từ những năm đầu thập niên
90.
Guatemala:
Nông dân trồng cà phê tại Guatemala có mức độ phòng hộ tương đối cao,
đó là do chương trình xây dựng và đào tạo năng lực lâu dài của Liên
hiệp nông dân trồng cà phê quốc gia (National Coffee Growers’ Federation
– Anacafé).
Đây là tổ chức tư nhân hoạt động phi lợi nhuận. Anacafé chỉ là nhân
tố tạo điều kiện thuận lợi chứ không cung cấp tín dụng cũng không phải
là môi giới. Nông dân tiếp cận tín dụng ngân hàng thương mại thuận lợi
hơn thông qua hệ thống tín dụng được Anacafé giới thiệu vào năm 1994. Sử
dụng các công cụ quản lý rủi ro là điều kiện tiên quyết để tham gia vào
chương trình tín dụng này. Điều này làm giảm đáng kể rủi ro cho ngân
hàng, cho phép họ cung cấp tín dụng cho nông dân trồng cà phê với lãi
suất thấp nhất (theo ước tính của Anacafé, điều này dẫn tới tiết kiệm
lãi suất cho nông dân được hơn 10% giá trị khoản vay – khoảng 2 triệu
USD mỗi năm). Các cuộc phỏng vấn trong những năm đầu của thế kỷ 21, khi
giá cà phê chạm tới mức thấp nhất trong lịch sử, nông dân cho rằng chính
sách phòng hộ là nhân tố quan trọng giúp họ duy trì cuộc sống.
Hệ thống này có những thành phần sau:
- Anacafé tổ chức đào tạo nhiều lĩnh vực khác nhau cho nông dân: giúp
nông dân hiểu và tính toán chi phí sản xuất; giải thích cơ chế hoạt động
của tín dụng nông nghiệp; và giải thích cách thức mà các thị trường thế
giới xác định giá cà phê, và cách mà rủi ro được quản lý. Anacafé duy
trì việc cập nhật thông tin thị trường cho nông dân – nông dân nhận được
các máy nhắn tin cung cấp giá trên các thị trường giao sau. [1]
- Nhân viên Anacafé sẽ đánh giá sản lượng tiềm năng và hỗ trợ nông dân những giấy tờ cần thiết để làm thủ tục vay.
- Anacafé cung cấp cho nông dân danh sách các ngân hàng mà Anacafé ký
kết thỏa thuận, và tùy nông dân chọn ngân hàng nào. Đơn vay và các giấy
tờ cần thiết sẽ được Anacafé chuyển đến cho ngân hàng.
- Thông thường ngân hàng sẽ chấp nhận khoản vay nhưng với điều kiện là
nông dân phải tham gia vào một chiến lược phòng hộ (có thể chọn các
công cụ như: hợp đồng kỳ hạn giá cố định, bán hợp đồng giao sau, mua hợp
đồng quyền chọn bán, chiến lược collar…).
- Nông dân thường phòng hộ rủi ro về giá thông qua một công ty xuất
khẩu mà họ giao dịch với cùng khối lượng hàng mà họ sẽ giao. Công ty
xuất khẩu quản lý rủi ro bằng cách bán hợp đồng giao sau hoặc mua hay
bán hợp đồng quyền chọn trên NYBOT. Công ty xuất khẩu thường tài trợ tài
chính trước cho các chiến lược quản lý rủi ro: họ sẽ trả phí quyền
chọn, sau đó trừ vào giá cà phê khi nông dân giao hàng, và cả các yêu
cầu ký quỹ. [2] Anacafé cung cấp thông tin và hỗ trợ công ty xuất khẩu
quản lý rủi ro (nếu như nông dân không giao hàng, công ty xuất khẩu có
thể chịu những khoản lỗ không được bù đắp khi ở vị thế trong các hợp
đồng giao sau và quyền chọn), nhưng không đưa ra bất kỳ đảm bảo nào.
Cũng như vậy, Anacafé không giúp nhà xuất khẩu có được nguồn quỹ để tài
trợ tài chính cho những giao dịch này. Điều này rõ ràng là phần yếu nhất
của hệ thống: nhà xuất khẩu đơn giản là không có đủ nguồn tiền để quản
lý rủi ro giá của rất nhiều nông dân.
Tất cả nông dân trong nước, theo quy định của luật, đều liên kết với
Anacafé và có thể tham gia chương trình này. Những nông dân nhỏ (và
nhiều nông dân tại Guatemala sản xuất ít hơn 2.000-3.000 lbs, so với
kích thước hợp đồng giao sau NYBOT là 37.500 lbs) cũng có thể sử dụng
các công cụ quản lý rủi ro bằng cách tập hợp nhiều nông dân nhỏ lại với
nhau. Hợp tác xã cũng có thể tham gia – ví dụ, trong một trường hợp, một
hợp tác xã 400 thành viên, bao gồm nhiều nông dân không biết chữ, cùng
phòng hộ trên thị trường New York. Phần trăm nông dân tham gia phòng hộ
tăng từ 0% đến khoảng 20% vào cuối những năm 90, đó là kết quả của những
hoạt động của Anacafé. Trong một cuộc phỏng vấn [3], nhiều nông dân
tham gia đã cho biết chính sách phòng hộ của họ có vai trò chủ chốt để
duy trì cuộc sống.
Những năm đầu thập niên 90, Guatemala cũng sử dụng khoản vay liên kết
với giá hàng hóa [commodity price-linked loan]. Anacafé phát hành một
trái phiếu trên thị trường vốn của Mỹ, lợi nhuận sẽ cho nhà xuất khẩu cà
phê của nước này vay lại – những nhà xuất khẩu đã trải qua giai đoạn
sụp đổ của thị trường cà phê trong cuối những năm 80.
- Anacafé nhận 1% mức phí mà nông dân phải trả dựa trên số tiền tín dụng mà họ vay.
- Ngân hàng không sẵn sàng tài trợ tài chính trước cho các chi phí
phòng hộ này là một trở ngại chính gây khó khăn cho việc mở rộng hoạt
động phòng hộ của nông dân. Đây cũng là nguyên nhân quan trọng giải
thích tại sao công ty xuất khẩu thường đê nghị nông dân sử dụng collar,
cũng được biết với tên gọi “hợp đồng quyền chọn chi phí bằng 0”: phí mua
quyền chọn bán sẽ được bù đắp bằng phí bán quyền chọn mua – nông dân
được bảo vệ khỏi rủi ro giá giảm nhưng đồng thời cũng từ bỏ tất cả hoặc
một phần lợi nhuận nếu giá tăng.
- Thực hiện năm 2000, là một phần nghiên cứu của Lực lượng đặc nhiệm
về quản lý bất trắc trong nông sản hàng hóa ở các nước đang phát triển
(International Task Force on Commodity Risk Management in Developing
Countries), Ngân hàng Thế giới, và kinh nghiệm của Guatemala được đề cập
như một trong những nội dung chính trong phim tài liệu nói về sự phù
hợp của quản lý rủi ro giá cho các nước đang phát triển.
Tác giả: Phương Nguyễn
Email: menfuong@gmail.com
Điện thoại: 0909 147 845