Ấn Độ:
Cà phê (Robusta cũng như Arabica) được sản xuất tại các bang phía Bắc
của Ấn Độ, bởi nông dân quy mô nhỏ cũng như đồn điền quy mô vừa. Một
vài đồn điền sử dụng thị trường giao sau London và New York, số còn lại
đều gián tiếp thông qua hợp đồng PTBF . Nông dân quy mô nhỏ thì chưa
tiếp cận được loại hợp đồng này. Tuy nhiên, có nhiều nông dân quy mô nhỏ
(đặc biệt ở Kerala, bang biết đọc biết viết nhiều nhất Ấn Độ) hiểu biết
về thị trường giao sau vì họ trồng cà phê kết hợp với hồ tiêu, mà Ấn Độ
thì có thị trường giao sau hồ tiêu hoạt động sôi nổi trong thời gian
dài.
Dựa trên nền tảng này, đã có rất nhiều nỗ lực để thiết lập thị trường
giao sau cà phê trong nước trong 10 năm qua. Những nỗ lực này cho tới
nay không hoàn toàn thành công (hợp đồng lớn nhất hiện tại giao dịch cà
phê Robusta ở Sàn giao dịch hàng hóa Multi Commodity Exchange của Ấn
Độ, có tổng cộng 145.000 hợp đồng từ khi sàn bắt đầu hoạt động vào cuối
tháng 1/2007 cho tới cuối tháng 4). Khó khăn phải đối mặt ở đây là:
chuyển những người sử dụng thị trường quốc tế sang thị trường trong
nước; sự chống đối của một vài, nhưng không phải là tất cả, những công
ty thương mại lớn (sàn hàng hóa cung cấp tính minh bạch và giúp những
người tham gia nhỏ cạnh tranh hơn, và điều này chẳng có lợi ích gì cho
một số công ty đó); khó khăn trong việc thiết lập tiêu chuẩn phù hợp; và
thị trường này không thu hút nhiều giao dịch bởi vì, ít nhất là trong
giai đoạn các sàn lớn trong nước bắt đầu những hợp đồng này, giá cà phê
tương đối ổn định. Tuy nhiên, các nỗ lực vẫn tiếp diễn.
Nicaragua:
Cà phê là cây trồng mang lại thu nhập chính của Nicaragua, hầu hết
được sản xuất bởi chừng 30.000 nông dân nhỏ. Nicaragua là một trong
những nước sản xuất cà phê trong chương trình của Lực lượng đặc nhiệm về
quản lý bất trắc trong nông sản hàng hóa ở các nước đang phát triển
(International Task Force on Commodity Risk Management), và là nước thực
hiện thành công giao dịch đầu tiên theo chương trình này. Giao dịch đầu
tiên này được ký vào tháng 10/2002, theo đó, một nhóm khoản 250 nông
dân mua trực tiếp quyền chọn bán trước khi thu hoạch nhằm bù đắp rủi ro
giá trong suốt thời gian bán trong năm mùa vụ. Do đó, nông dân có khả
năng tránh được việc bán ngay lập tức trong thời gian thu hoạch, và họ
có khả năng điều chỉnh thời gian bán tốt hơn. Quyền chọn thông qua thị
trường phi tập trung OTC, do một công ty giao dịch cà phê Thụy Sĩ cung
cấp.
Tanzania:
Những nỗ lực ban đầu nhằm mang quản lý rủi ro giá đến cho nông dân
trồng cà phê tại Tanzania và Uganda đã đạt được một ít thành công bền
vững. Ngân hàng địa phương – Ngân hàng Thương mại và Phát triển Đông và
Bắc Phi (Eastern and Southern African Trade and Development Bank – PTA
Bank) bắt đầu một “Hợp đồng đảm bảo giá” (“Price Guarantee Contract
Facility”) vào năm 1994, theo đó, PTA Bank xây dựng chương trình quản lý
rủi ro giá và cung cấp tín dụng thương mại cho cà phê và bông (hầu hết
tập trung vào thời gian sau thu hoạch và dựa trên chứng thư gửi kho).
Nhiều hội thảo được tổ chức tại 8 nước trong các nước thành viên, nhiều
nhà xuất khẩu và chế biến tham gia, cùng một hoặc hai hợp tác xã nông
nghiệp. Nhưng chương trình đảm bảo giá này từ từ biến mất dần trong nửa
sau những năm 90.
Là một trong những dự án đầu tiên thực hiện bởi Lực lượng đặc nhiệm
về quản lý bất trắc trong nông sản hàng hóa ở các nước đang phát triển
(International Task Force on Commodity Risk Management), hợp tác xã lớn
nhất của Tanzania – Kilimanjaro Native Cooperative Union (KNCU), với
hàng ngàn thành viên, được hỗ trợ trong giai đoạn 2000-2002 phát triển
một chương trình quản lý rủi ro giá. Kết quả là, năm 2002 mua hợp đồng
quyền chọn bán cho 700 tấn cà phê. Một ngân hàng Hà Lan thông qua ngân
hàng địa phương – Ngân hàng Phát tiển Hợp tác xã nông thôn (Cooperative
Rural Development Bank – CRDB) cung cấp hợp đồng quyền chọn giá trung
bình. Điều này cho phép hợp tác xã duy trì việc đảm bảo giá tối thiểu
cho thành viên và thanh toán những khoản tiếp theo nếu giá cao hơn sau
khi thu hoạch. Giá tối thiểu cho thành viên cao hơn giá mà hợp tác xã
nhận được khi bán cà phê, do đó hợp tác xã quyết định phòng ngừa rủi ro
cho năm mùa vụ tiếp theo sau. Thêm vào đó, ngân hàng địa phương tài trợ
tài chính cũng khuyến khích hợp tác xã tìm kiếm sự bảo vệ giá cho mùa vụ
2002-2003.
Nhưng KNCU không phòng ngừa rủi ro cho tất cả các năm tiếp theo. Thay
đổi trong cách quản lý của hợp tác xã là một trong những nguyên nhân –
ban quản lý hợp tác xã không tin rằng giá sẽ giảm, cho nên tai sao phải
trả cho phí quyền chọn? Tuy nhiên, CRDB đã thực hiện quản lý rủi ro giá
cho một phần hoạt động của mình.
Tác giả: Phương Nguyễn
Email: menfuong@gmail.com
Điện thoại: 0909 147 845